82 Views

Điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật?

Đăng bởi 4bae2b8516aff755876f908e561fcbaf - 09:28 16/09/2022

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam. Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, Điều 23 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc Thẩm phán và Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây được coi là nguyên tắc cơ bản, mang tính nền tảng, định hướng cho quá trình tố tụng cũng như cho hoạt động tố tụng của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vậy điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là những điều kiện như thế nào? Hãy cùng Luật sư Nguyễn Xuân Thắng là thành viên công ty Luật TNHH Phúc Khánh Hưng thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội tìm hiểu về vấn đề này. 

1. Điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

       Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có vai trò quyết định trong việc xét xử bình đẳng, công bằng, khách quan, là yêu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp. Đó là tiêu chí, yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật và có cơ chế để vụ án giải quyết công khai, minh bạch, đảm bảo các công dân đều công bằng trước pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không xảy ra oan sai và cũng để nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm được thực thi có hiệu quả. Do đó, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải phân định minh bạch, tách biệt, độc lập giữa các chức năng.

Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã đạt được một số thành quả nhất định tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương hướng cải cách tư pháp có thể tóm gọn ở một số ý sau:

  • Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng cơ chế khuyến khích nhân dân tham gia việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tăng cường vai trò, trách nhiệm giám sát của nhân dân thông qua các cơ quan dân cử. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm vừa đủ về số lượng lại không ngừng nâng cao về chất lượng. Mở rộng, đổi mới việc thi tuyển đối với các chức danh tư pháp.
  • Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch.
  • Tổ chức các cơ quan tư pháp theo hướng khoa học, hiện đại, tinh giản; bộ máy Tòa án phải được xây dựng trên cơ sở tiêu chí chức năng, thẩm quyền, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp. Bảo đảm dân chủ, công bằng, công khai trong hoạt động tố tụng, kết hợp với việc tăng cường học hỏi, hợp tác quốc tế góp phần đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm xuyên quốc gia.

         Thứ hai, điều chỉnh, sửa đổi các quy định của pháp luật chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 thì: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm”. Có thể thấy sự độc lập của Hội thẩm và Thẩm phán được thể hiện rõ hơn so với các bản Hiến Pháp năm 1992 hay Hiến pháp năm 1980. Theo đó, việc Hội thẩm được đưa vào trong Hiến pháp cho thấy sự quan tâm và chú trọng trong chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực hiện tính đại diện và quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử. Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số các quy định để gia tăng trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử để đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không xảy ra oan sai. Cùng với đó là gia tăng tính minh bạch trong hoạt động tố tụng, đổi mới mô hình tố tụng phù hợp hơn với thực tế. Tòa án được bổ sung thêm một số chức năng khi pháp luật quy định Tòa án có quyền độc lập nhiều hơn như yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự tại phiên tòa; xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án. Tòa án còn có nhiệm vụ phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan có thẩm quyền phải trả lời Tòa án về kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị làm cơ sở để giải quyết các vụ án… Tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử sẽ được bảo đảm hơn.

2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập

        Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, hạn chế oan sai, tiêu cực, xét xử đúng người, đúng tội và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử, chúng ta cần làm tốt những nội dung sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa pháp lý của Hội thẩm nhằm bảo đảm sự tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Theo tôi, cần sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng quy định thời hạn dài hơn cho một nhiệm kỳ của Hội thẩm là 07 năm. Về thành phần Hội đồng xét xử, có thể giảm số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử các vụ án dân sự, hình sự, hành chính, cụ thể là trong phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử có một Hội thẩm và hai Thẩm phán (hoặc trong trường hợp đặc biệt có hai Hội thẩm và ba Thẩm phán). Như vậy, vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp của Thẩm phán, vừa bảo đảm tính nhân dân của Hội đồng xét xử. Bổ sung quy định về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm. Quy chế đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm sẽ quy định những yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất cần có của Hội thẩm, những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm trong hoạt động tố tụng, trong quan hệ công tác, trong quan hệ với những người tiến hành tố tụng, với những người tham gia tố tụng và trong mối quan hệ hành chính…; quy định về cơ chế khen thưởng và xử lý vi phạm đối với Hội thẩm.

 Thứ hai, xử lý nghiêm tình trạng “thỉnh thị án”, “báo cáo án” của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Thực trạng “trao đổi đường lối giải quyết vụ án”, “trao đổi nghiệp vụ” hay “tham khảo ý kiến” giữa Thẩm phán của Tòa án cấp dưới với Thẩm phán của Tòa án cấp trên là một thực tế đang tồn tại. Tính tiêu cực của cơ chế “thỉnh án”,“báo cáo án”, “trao đổi đường lối giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án” hay “tham khảo ý kiến của Tòa án cấp trên” đã làm cho cơ cấu tổ chức của hệ thống xét xử trở nên không có ý nghĩa, làm cho chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, quyền bào chữa của công dân không được bảo đảm; phá vỡ các nguyên tắc của hoạt động tư pháp đã được hiến định, như “nguyên tắc độc lập xét xử”, “nguyên tắc xét xử tập thể” hay “nguyên tắc bảo đảm tính đại diện của nhân dân trong xét xử”, làm cho những nguyên tắc này đã trở nên hình thức và không được tôn trọng, làm giảm vai trò của Hội thẩm, phá vỡ nguyên tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử.

Để bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, cần phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư pháp giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án với Thẩm phán; phải có các cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Cần tăng cường tính chịu trách nhiệm giải trình công khai, minh bạch của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Sự độc lập của tư pháp cần phải đi cùng với cơ chế trách nhiệm trong hoạt động tư pháp. Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán cần công khai, minh bạch, chuẩn hóa các tiêu chuẩn đối với Thẩm phán, đồng thời có cơ chế kết hợp thi tuyển với tuyển chọn người để bổ nhiệm Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán.

Thứ ba, Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác tổng kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án nhân dân các cấp. Tăng cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản pháp luật mới được ban hành cho Thẩm phán các cấp. Xây dựng quy chế quản lý, giám sát đối với Thẩm phán, Hội thẩm trong việc thực thi nhiệm vụ của mình; có biện pháp chế tài hành chính cụ thể đối với những trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội thẩm. Kiện toàn nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Nghiên cứu, xây dựng cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm phù hợp với vị trí, vai trò và đặc thù của công tác xét xử. Xây dựng chế độ tiền lương cho Thẩm phán theo thang, bậc lương riêng. Cần có những biện pháp bảo đảm an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ khi thi hành công vụ. Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác xét xử của Tòa án như xây dựng trụ sở, mở rộng phòng xử án, trang bị đầy đủ các phương tiện phục vụ và hỗ trợ cho công tác xét xử đảm bảo thực hiện các nguyên tắc tố tụng như độc lập xét xử, xét xử công khai, nguyên tắc tranh tụng… để ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

 

 

Chia sẻ:
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
  • Trang chủ
  • Phone
  • Messenger
  • Zalo
  • 0
    Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x